Cách phân loại đá Suiseki của người Nhật Bản
Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2012
Làm thế nào để ta có thể phân loại được một viên đá? Ở mỗi góc nhìn khác nhau nó cho ta hình con thỏ hoặc một con sư tử? Nó có thể được phân thành “kiểu hình ảnh” hoặc “vật thể” ? Nếu nó là cả hai, ta phải chọn cách phân loại nào?
Chủ nhân vui lòng quyết định.
Trong thế giới đá cảnh, không chỉ có một cách để phân loại viên đá. Ảnh hưởng bởi những hệ thống phân loại truyền thống, phân loại đá cảnh vẫn là vấn đề tư duy và sự tinh tế của nhà sưu tập. Một viên đá thật ấn tương có thể hợp với nhiều cách phân loại, và nhà sưu tập được vinh dự chọn cách phân loại nào mà họ cảm thấy nó làm nổi bật tính thiên nhiên nhất của viên đá. Để có một cái tên hay cho tác phẩm thì cần phải tìm được cách phân loại tối ưu.
Trong khi người Trung Hoa phân loại đá của họ dựa vào nguồn gốc, thì người Nhật, Triều Tiên và phương Tây sử dụng nhiều hệ thống phân loại khác nhau, một trong số đó là hình dáng, màu sắc, kiểu hình ảnh bề mặt…
Nói chung, có dùng một hoặc hai cách phân loại thì cũng nhằm mục đích là đặt tên cho một suiseki.
Trật tự đặt tên tác phẩm suiseki của người Nhật: (nếu có hơn một hệ thống phân loại được đề nghị).
Chủ nhân vui lòng quyết định.
Trong thế giới đá cảnh, không chỉ có một cách để phân loại viên đá. Ảnh hưởng bởi những hệ thống phân loại truyền thống, phân loại đá cảnh vẫn là vấn đề tư duy và sự tinh tế của nhà sưu tập. Một viên đá thật ấn tương có thể hợp với nhiều cách phân loại, và nhà sưu tập được vinh dự chọn cách phân loại nào mà họ cảm thấy nó làm nổi bật tính thiên nhiên nhất của viên đá. Để có một cái tên hay cho tác phẩm thì cần phải tìm được cách phân loại tối ưu.
Trong khi người Trung Hoa phân loại đá của họ dựa vào nguồn gốc, thì người Nhật, Triều Tiên và phương Tây sử dụng nhiều hệ thống phân loại khác nhau, một trong số đó là hình dáng, màu sắc, kiểu hình ảnh bề mặt…
Nói chung, có dùng một hoặc hai cách phân loại thì cũng nhằm mục đích là đặt tên cho một suiseki.
Trật tự đặt tên tác phẩm suiseki của người Nhật: (nếu có hơn một hệ thống phân loại được đề nghị).
- nơi xuất xứ
- kiểu bề mặt
- màu
- hình dáng
- một cái tên đầy chất thơ được dùng sau lần phân loại cuối cùng
- hiếm khi sử dụng cả bốn tiêu chí này.
Hầu hết người Mỹ phân loại suiseki theo hình dáng hay kiểu dáng bề mặt, đôi khi theo nguồn gốc, và để tăng tính phổ biến thì thêm một cái tên có chất thơ phú.
Các nhà sưu tập Nhật bản cũng sử dụng những kiểu phân loại sau:
Các nhà sưu tập Nhật bản cũng sử dụng những kiểu phân loại sau:
- Biseki:
- đá đã được mài và đánh bóng để làm tăng vẻ đẹp của chúng.
- không cần có một hình dáng gợi cảm như suiseki, mà cần hình dáng bắt mắt hiện trên bề mặt đá do chất liệu tạo thành.
- thường được trưng bày với suiseki.
- những nhà sưu tập Nhật bản thích khắc hoặc đánh bóng để tăng kiểu hình hoa hoặc màu của nó.
- Meiseki (đá nổi tiếng):
- Suiseki hay biseki nổi tiếng bởi chất lượng và vẻ đẹp nổi bật
- Thường được truyền qua nhiều thế hệ có khi được cả hàng trăm năm.
- Yuraiseki (đá lịch sử):
- Suiseki hoặc biseki được sở hữu bởi những người nổi tiếng trong lịch sử.
- Suiseki hoặc biseki được gắn liền với những sự kiện lịch sử.
- Reiheki (dốc sườn):
- hình những dòng chảy thẳng đứng.
- bề mặt bị ăn mòn sâu.
- hình dạng cong xoắn.
- đá có những lỗ thủng thấu quang.
Dưới đây là danh sách cách phân loại theo mỗi nền văn hóa:
CÁCH PHÂN LOẠI CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN
I. PHÂN LOẠI THEO HÌNH DÁNG
Sansui keiseki/Sansui keijo-seki: đá có hình dáng phong cảnh :
CÁCH PHÂN LOẠI CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN
I. PHÂN LOẠI THEO HÌNH DÁNG
Sansui keiseki/Sansui keijo-seki: đá có hình dáng phong cảnh :
- Yamagata-ishi: đá có hình dáng núi. Hình dáng núi nhìn từ xa (viễn cảnh) hoặc nhìn gần (cận cảnh) hoặc vài ngọn núi.
- Toyama-ishi/Enzan-seki Hình dáng núi nhìn từ thật xa (viễn cảnh)
- Kinzan-seki Hình dáng núi nhìn gần (cận cạnh).
- Koho-seki có dáng như núi với chỉ một đỉnh.
- Koho-seki có dáng như núi đôi (hai núi hoặc một núi đơn với hai đỉnh ).
- Sampo-seki có dáng như ba đỉnh (các núi với ba đỉnh riêng biệt)
- Rempo-seki có dáng như dãy núi (dãy của các núi nhiều hơn một núi đơn với một hoặc nhiều đỉnh riêng biệt).
- Seigaku-seki có dáng như núi xù xì, gồ ghề (các đá núi với hình dạng xù xì đặc trưng).
- Sekkei-ishi có dáng như núi phủ tuyết (các đá núi với khóang giống như tuyết ở đỉnh hoặc sườn)
- Taki-ishi có dáng như thác nước (tương tự núi với một hoặc nhiều thác nước. Ám chỉ thác nước bởi mạch khóang màu trắng ở trên đỉnh của đá đi thẳng xuống)
- Itodaki-ishi có dáng như dòng thác nước ( ám chỉ bởi một dòng mỏng giống thạch anh chảy xuống phía trước đá)
- Nudodaki-ishi có dáng như mảng thác nước ( Những đường rộng của vỉa màu sáng đi xuống phía trước sườn của đá)
- Karedaki-ishi có dáng như thác nước cạn Yamagata-taki-ishi có dáng như núi thác nước (các đá núi với một hoặc nhiều các thác nước xuất hiện trên bề mặt phía trước của chúng)
- Keiryu-seki có dáng như suối núi ( suối chảy qua làng, thường thường mạch thạch anh trắng nơi dòng suối đã chảy. Lý tưởng nếu suốI chảy theo đường chéo (zíc zắc) Ví dụ: từ trước ra sau)
- Dan-seki/Dan-ishi có dáng như Cao nguyên ( bậc thang sườn đồi hoặc một loạt bậc thang phẳng nâng lên hướng về vách đá. Kiểu cổ có ít nhất ba bậc khác nhau về chiều dài, bậc thang nên thẳng đứng hoặc gần thẳng đứng).
- Shimagata-ishi có dáng như hòn đảo ( giống như hòn đảo nhô lên từ mặt nước, thấp đến cao, tương tự vịnh nhỏ hoặc cái lạch (giữa hai hòn đảo) thông thường trưng bày trong suiban hoặc doban chứa cát hoặc nước để làm nổi bật hòn đảo).
- Doha-seki/Doha-ishi có dáng như dốc ( tương tự những đồi dốc của vùng đồng bằng hoặc một con dốc nhẹ nâng lên tạo thành đồi).
- Isogata-ishi có dáng như bờ biển (thường nông và ám chỉ một rặng đá dải đất ven bờ).
- Araiso/Araiso-ishi có dáng như đá ngầm (các loạI đá thô ám chỉ mép gồ ghề hoặc đồi cát nhỏ nhô lên khỏi mặt biển).
- Hirasu/Hirasu-ishi : có dáng như dãy cát dài ở cửa biển
- Misaki-ishi: có dáng như mũi đất
- Mizutamari-ishi có dáng như có hồ trên núi.
- Tamari-ishi có dáng như hồ nhỏ hay hồ
- Mitzutame-ishi có dáng như ao.
- Iwagata-ishi có dáng như dãy đá ở bờ biển (Tương tự dạng bờ biển lộng gió; vách đá dốc giống như bị sóng đánh).
- Dokutsu-ishi có dáng như hang hốc sâu và tối.
- Yadori-ishi có dáng như hang động.
- Amayadori-ishi có dáng như hang động trú mưa.
Keisho-seki Vật thể
- Yagata-ishi có dáng như nhà ở (nhiều loại nhà của những dân tộc khác nhau)
- Kuzuya-ishi có dáng như nhà tranh
- Funagata-ishi có dáng như con thuyền (các loại thuyền khác nhau như thuyền gỗ, bườm, thuyền nhà.
- Hashi-ishi có dáng như chiếc cầu kể cả cầu gỗ.
- Dobutsu-seki có dáng như động vật
- Torigata-ishi có dáng như con chim.
- Mushigata-ishi có dáng như côn trùng (đặc biệt là con bướm, chuồn chuồn, dế, cào cào).
- Uogata-ishi có dáng như con cá (đặc biệt là cá vàng)
- Sugata-ishi/Jimbutsu-seki có dáng như người (đặc biệt là dân câu cá, nông dân, thiếu nữ, đức Phật, hòa thượng, hoặc các bộ phận cơ thể của người.)
- Sankeishi-seki có hình dáng của ba chủ đề khác nhau khi nhìn từ ba góc độ
II. PHÂN LOẠI THEO MÀU
- Kuro-ishi có màu đen
- Maguro-ishi có màu đen tuyền
- Aka-ishi có màu đỏ
- Ao-ishi có màu xanh dương
- Murasaki-ishi có màu tím
- Ogon-seki có màu vàng
- Kinko-seki có màu vàng đỏ
- Goshiki-ishi/Goshiki-seki có 5 màu (sự pha trộn của màu đỏ, vàng và xanh lục cùng với xám xanh dương, tím, trắng và đen.)
III. PHÂN LOẠI THEO HÌNH ẢNH TRÊN ĐÁ
Do các khóang vật tạo đá hoặc tạp chất xen lẫn vào đá nhưng có màu sắc khác biệt chúng tạo ra những hình ảnh nổi bật nói lên một chủ đề nào đó.
Kigata-ishi có hình thực vật
Do các khóang vật tạo đá hoặc tạp chất xen lẫn vào đá nhưng có màu sắc khác biệt chúng tạo ra những hình ảnh nổi bật nói lên một chủ đề nào đó.
Kigata-ishi có hình thực vật
- Mori-ishi có khung cảnh rừng
- Bonsai-ishi có hình Bonsai (cả cây và chậu.)
- Hanagata-ishi có hình bông hoa:
- Kikumon-seki/Kikka-seki/Kiku-ishi có hình đóa hoa trong vườn to như hình quả bóng.
- Baika-seki có hình hoa Cúc đại đoá của Nhật.
- Nobara-ishi có hình bông hồng dại.
- Migata-ishi có hình trái cây.
- Hagata-ishi có hình chiếc lá hoặc nhánh hoa
- Kusagata-ishi có hình thảm cỏ (thảm cỏ bụi tre)
Gensho-seki có hình bầu trời
- Tsukigata-ishi có hình mặt trăng
- Higata-ishi có hình mặt trời (màu của đá thể hiện màu của mặt trời mọc, lặn)
- Hoshigata-ishi có hình ngôi sao
Tenko-seki có hình thể hiện hiện tượng thời tiết
- Amagata-ishi có hình thể hiện mưa
- Yukigata-ishi có hình thể hiện tuyết rơi
- Raiko-seki có hình thể hiện sét, sấm chớp
Chusho-seki có hình thể hiện sự trừu tượng
- Tori-ishi có hình thể hiện dáng của con cọp
- Tangled-net-pattern stones có hình thể hiện lưới đánh cá.
- Jagure có hình thể hiện dáng của con rắn.
- Moniri-ishi có hình thể hiện cảnh vui nhộn
IV. PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC KHAI THÁC
- Kamogawa river stones Đá đen huyền loại đá hình núi nhìn xa và sườn đồi được tìm thấy ở sông Kamogawa tại Kyoto.
- Kurama stones Đá granite nâu hình đảo, núi xa, đá vôi nâu xám có hình lưới cá tìm thấy gần sông Kamogawa, Kyoto.
- Kibune stones Hình núi, thác nước, núi có suối màu tím, đỏ đậm, xám tìm thấy quanh sông Kamgawa.
- Setagawa river stones Hình núi đen, sườn đồi, hình rằn ri da hổ tìm thấy ở sông Setagawa tại Shiga và Kyoto.
- Nachiguro stones Hình núi đá đen hoặc bình nguyên từ núi đá ở Mie.
- Kamuikotan stones Đá xanh đen loại đá hình núi nhìn xa, bình nguyên và sườn đồi được tìm thấy ở sông và suối Hokkaido.
- Sado red stones hình đảo và núi đỏ lấy từ núi ở Niigata.
- Ibigawa river stones Hình bờ biển, đảo, hồ nước, chỗ ở hoặc thác nước từ sông và suối ở Gifu.
- Sajigawa river stones Hình bờ biển, đảo, hồ nước, chổ ở hoặc thác nước có màu đen hay xanh đen đậm từ sông và suối ở Tottori.
- Furuya stones Hình bờ biển, đảo, hồ nước, chỗ ở hoặc thác nước từ sông và suối ở có màu đen hay xám đen từ Wakayama.
- Seigaku stones Hình bờ biển, đảo, hồ nước, chỗ ở hoặc thác nước từ sông và suối ở có màu đen hay xám đen từ Shizuoka.
- Neodani stones Nhiều loại đá bao gồm hình hoa cúc đại đóa tìm thấy từ Gifu.
Có phân chia thế nào thì người Nhật vẫn chỉ thường dùng hai cách phân loại suiseki là Hình dáng và Kiểu thức bề mặt đá (vân thạch) mà thôi.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét